
The talk 1: 19/April/2017 (Ph.D Nguyen Thu Giang)
Nguyen Thu Giang is a lecturer in media studies at the Vietnam National University. She has recently completed her doctorate at the University of Queensland under the Australia Awards Scholarships. Her thesis investigates the relationship between Vietnamese popular television and the remaking of nationhood in post-Reform Vietnam. In 2015, Giang was the winner of the John McCullough Memorial Prize at the University of Queensland for best graduate writing. Giang has published her work on nostalgia and television drama in Media International Australia, a highly respected media studies journal. She also contributed a book chapter on the rise of commercial nationalism in Vietnam in a Palgrave MacMillan collection. She is now completing her book with Routledge based on her thesis. The book is to be published in 2018 and is entitled Television in Post-Reform Vietnam: Nation, Media, Market.
Giang has a keen interest in engaging with Vietnamese media beyond the stereotype of socialist censorship. Currently, she is working on a project about the relationship between social media and the affective economy of fear in Vietnam through the case study of the food and environment panic. She also investigates the politics of memory manifested in Vietnamese popular television. Giang is highly committed to public education in Vietnam. She is teaching various courses on media theories for junior students at the Vietnam National University, a task she enjoys enormously. She also published many journal articles and book chapters in the Vietnamese language to introduce cultural studies to local readers.
—-
Nguyễn Thu Giang là giảng viên trong lĩnh vực nghiên cứu truyền thông tại Đại học Quốc Gia Việt Nam, Hà Nội. Cô vừa hoàn thành chương trình Tiến sĩ tại Đại học Queensland theo diện học bổng Chính phủ Úc (AAS). Luận án của cô nghiên cứu về mối quan hệ giữa truyền hình đại chúng và việc tái thiết quốc gia giai đoạn sau Đổi mới ở Việt Nam. Năm 2015, Giang nhận được Giải thưởng Tưởng niệm John McCullough (John McCullough Memorial Prize) của Đại học Queensland cho luận án tốt nghiệp xuất sắc nhất. Giang đã xuất bản một công trình nghiên cứu về sự hoài niệm và phim truyền hình trên Media International Australia – một tạp chí có uy tín cao trong lĩnh vực nghiên cứu truyền thông. Cô cũng là đồng tác giả trong một cuốn sách viết về sự trỗi dậy của Chủ nghĩa dân tộc thị trường ở Việt Nam do tập đoàn Palgrave MacMillan tuyển chọn. Hiện cô đang hoàn thiện một cuốn sách khác do Routledge xuất bản phát triển từ chính luận án của cô. Cuốn sách dự kiến sẽ xuất bản vào năm 2018 dưới tên gọi, Truyền hình hậu Đổi mới ở Việt Nam: Quốc gia, Truyền thông, Thị trường.
Giang rất tích cực trong việc đưa truyền thông Việt Nam vượt qua những định kiến của kiểm duyệt xã hội chủ nghĩa. Gần đây, cô đang thực hiện một dự án về quan hệ giữa truyền thông xã hội và nỗi sợ của biến động kinh tế tại Việt Nam qua trường hợp nghiên cứu thực thẩm và những hoảng loạn về môi trường. Cô cũng đồng thời quan tâm đến góc độ chính trị học của ký ức được hiển thị trên truyền hình đại chúng Việt Nam. Giang không ngừng nỗ lực thúc đẩy phát triển giáo dục công tại Việt Nam. Cô đã giảng dạy rất nhiều khóa học về lý thuyết truyền thông cho sinh viên năm 3 tại Đại học Quốc gia Việt Nam – Hà Nội, một công việc cô cực kỳ tâm huyết. Cô cũng là tác giả và đồng tác giả của nhiều nghiên cứu khoa học bằng Tiếng Việt nhằm giới thiệu những
nghiên cứu văn hóa tới độc giả trong nước.
part1
part2
part 3
(Tiếng Việt ở dưới )
SERIES OF PUBLIC TALKS
The series of Public Talks will showcase speakers representing a range of diverse arts spaces and initiatives from around Southeast Asia and Vietnam, with an aim to further networking opportunities and the development of arts discourse for arts professionals in Ho Chi Minh City and Vietnam.
This series of talks is expected to benefit both the workshop participants as well as our local public and art community as it will revolve around some of the themes that we will explore in the workshop including these following suggested questions:
1) The AIS Project has an emphasis on working with mostly younger or emerging arts professionals. What is your own experience of inter-generational dynamics in the arts? How do you think one generation translates for the other, and how should we address these dynamics?
2) In the region, the last twenty years of cultural exchange — or cultural translation — has produced all kinds of exhibitions, residencies, publications, archives, collaborations with communities and so on. These conventional activities are still worth pursuing, but today many arts and cultural workers are searching for new ideas about how we gather together and interact — whether in local, regional or international contexts. What is your own experience with cultural exchange? How were the expectations of these gatherings communicated to participants? And how does one sustain the conversations that have taken place during the event after it concludes and participants go their separate ways?
3) Contemporary art and “digital culture” are characterised by plurality and fragmentation. Yet one of art’s big assumptions is that you can curate art from everywhere and exhibit it all within a single framework, like a biennale. No matter how unconventional, new art is ultimately read in the context of art history. This continuity makes it meaningful to speak of art as a specific category of cultural activity, even when one can’t draw clear boundaries around the field. Digital culture is even more plural and fragmented than art, yet it doesn’t describe a specific category so much as a universe of disparate phenomena. There is no equivalent of a biennale for digital culture, a single platform that can represent the scattered expanse of all things encoded into ones and zeros (from mobile phone multimedia to movies, music, video games, blogs and websites that cover everything from food to fashion to philosophy). If art is, deep down, discursive and reading-based, then digital culture is essentially participatory — something that we engage in. Digital content may dominate our attentions, but it’s not only the overlords of capitalism who are churning out this material. It’s us users who produce and curate a considerable share of the images, sounds and texts that fill up our drives, cloud servers and networks, which we sometimes broadcast for all to see. The digital revolution is changing how we read and write about contemporary art. How are you coming to terms with the cultural transformations of digital culture?
—
LOẠT NÓI CHUYỆN CỘNG ĐỒNG
Loạt nói chuyện cộng đồng sẽ mang tới các diễn giả đại diện cho một loạt các không gian độc lập và tổ chức nghệ thuật đa dạng từ Đông Nam Á, với mục đích tạo ra các cơ hội kết mạng làm việc nhiều hơn và làm sâu sắc hơn các diễn ngôn nghệ thuật cho các nhân sự nghệ thuật chuyên nghiệp tại Sài Gòn và Việt Nam.
Loạt nói chuyện cộng đồng này được mong đợi sẽ mang lại lợi ích cho các những người tham dự workshop lẫn cộng đồng nghệ thuật và công chúng quan tâm tại địa phương qua việc xoay quanh một số chủ đề được khảo sát trong workshop, tức những gì bao gồm trong ba câu hỏi gợi ý dưới đây:
1) Dự án trạm Ẩn/Hiện châu Á nhấn mạnh vào sự làm việc với hầu hết các nhân sự nghệ thuật chuyên nghiệp trẻ hơn hoặc mới xuất đầu lộ diện. Bạn có kinh nghiệm cá nhân gì trong việc tương tác xuyên/liên thế hệ trong hoạt động nghệ thuật? Bạn nghĩ sao về việc thế hệ này thông dịch sang những thế hệ khác, và chúng ta nên định vị những tương tác ấy như thế nào?
2) Ở phạm vi khu vực, trong vòng 20 năm trao đổi văn hoá hay thông dịch văn hoá gần đây đã sản sinh ra những loại hình triển lãm, lưu trữ, tổ chức sự kiện cộng đồng, vân vân. Những hoạt động mang tính thông lệ ấy vẫn rất đáng để theo đuổi, tuy nhiên ngày nay, nhiều người làm việc trong lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật đang tìm kiếm những ý tưởng mới trong cách thức giúp chúng ta kết nối và tương tác với nhau – dù là trong bối cảnh địa phương, khu vực hay quốc tế. Kinh nghiệm cá nhân của bạn trong lĩnh vực trao đổi văn hóa là gì? Và làm thế nào để có thể duy trì dư ba của những cuộc đối thoại diễn ra trong suốt sự kiện sau khi nó đã kết thúc và những người tham gia thì đã lưu tản khắp nơi?
3) Nghệ thuật đương đại và ‘văn hóa số’ mang đặc trưng là sự đa dạng và phân mảnh. Một trong những tham vọng lớn của nghệ thuật là ta có thể giám tuyển nghệ thuật từ khắp mọi nơi và triển lãm tất cả chúng trong cùng một khuôn khổ duy nhất, như ở dạng triển lãm lưỡng niên chẳng hạn. Bất chấp độ cách tân của nó thế nào đi nữa, nghệ thuật mới sau rốt vẫn cần được đọc trong bối cảnh lịch sử nghệ thuật. Tính liên tục này khiến cho việc nói đến nghệ thuật như một hạng mục riêng biệt của hoạt động văn hóa trở nên có ý nghĩa, ngay cả khi người ta không thể vạch ra những đường biên rõ ràng của nó. Văn hóa số thậm chí còn đa dạng và phân mảnh hơn cả nghệ thuật, tuy nhiên nó không định hình nên một hạng mục chuyên biệt như là tổng thể của những hiện tượng riêng rẽ. Không có bất kỳ một hình thức tương đương với triển lãm lưỡng niên nào đối với văn hóa số, cũng không có một trạm độc lập nào có thể tái hiện được sự lan rộng của tất cả những thứ được mã hóa đồng bộ thành 1 và 0 (từ điện thoại di động đa phương tiện cho đến phim ảnh, âm nhạc, trò chơi điện tử, blogs và websites –tức những thứ bao chứa tất cả từ ẩm thực, thời trang cho đến triết học). Nếu như nghệ thuật, về bản chất, mang tính diễn ngôn và dựa trên nền tảng của sự đọc, thì mặt khác, văn hóa số lại mang tính tham gia – thứ mà tất cả chúng ta đều dự phần trong đó. Nội dung số có thể chi phối sự chú ý của chúng ta, nhưng nó không chỉ đơn thuần nằm trong tay những ông trùm của chủ nghĩa tư bản – tức những người đang sản xuất hàng loạt thứ tài nguyên này. Nó còn nằm ở chính bản thân người dùng chúng ta – những người sản xuất và tuyển chọn một lượng chia sẻ đáng kể những hình ảnh, âm thanh và văn bản – tức những thứ lấp đầy ổ cứng ảo, kho dữ liệu đám mây và mạng kỹ thuật số của chính chúng ta, và là những thứ thỉnh thoảng chúng ta vẫn tung ra khắp nơi cho mọi người thấy. Cuộc cách mạng số đang thay đổi cách chúng ta đọc và viết về nghệ thuật đương đại. Bạn đang thích ứng ra sao với những biến đổi văn hoá do văn hoá số gây nên?